Nhờ sự phát triển của y học rất nhiều bệnh tật nan y mà các thầy thuốc bó tay khi xưa có thể được chữa khỏi một cách dễ dàng bởi vì y học hiện đại. Nhưng vì sao nhiều người vẫn tin vào thầy cúng và pháp sư. Trong cuốn tiểu thuyết “Ăn, Cầu nguyện và Yêu” của nữ tác giả Elizabeth Gilbert, đã đã dành rất nhiều lời khen ngợi và biết ơn tới một vị thầy cúng, thầy thuốc tại đảo Bali, người đã giúp rất nhiều bệnh nhân khỏi bệnh, không chỉ về thể xác mà còn giúp họ tìm thấy sự cân bằng trong cuộc sống của mình trong đó có Elizabeth. Rõ ràng tinh thần cũng cần được dành sự quan tâm như thể xác .Nhưng có phải y học hiện đại đã mang đến sự không công bằng?
Tên sách: Khi cơ thể nói không
Cái giá của những căng thẳng giấu kín Gabor Maté là một nhà tâm lý học và bác sĩ đã thực hành y học trong các cơ sở y tế và bệnh viện trong hơn 30 năm. Ông đã viết rất nhiều cuốn sách về mối liên hệ giữa sức khỏe tinh thần, thể chất và chấn thương. Maté nói, bệnh tật là cách cơ thể nói không không với những căng thẳng do lối sống của chúng ta gây ra. Ông lập luận rằng, y học hiện đại không nhận ra tác động tàn phá của căng thẳng mãn tính đối với sức khỏe, một phần là do sự hiểu lầm về căng thẳng và nguyên nhân gây ra nó. Phần lớn căng thẳng mà chúng ta trải qua là trong tiềm thức, vì vậy chúng ta thậm chí có thể không nhận ra nó là căng thẳng; trên thực tế những người tin rằng bản thân là người ít gặp rắc rối nhất về mặt cảm xúc là những người có nguy cơ mắc bệnh cao nhất, bởi vì chính việc kiềm nén những cảm xúc tiêu cực mới là kẻ thù tồi tệ nhất của chúng ta. Nhận thức được căng thẳng vô thức của bản thân là chìa khóa để giải quyết nó và tránh những căn bệnh không tránh khỏi đi kèm với nó.
Trong suốt những nội dung sau đây, chúng ta sẽ mở rộng các ý tưởng của Maté bằng cách xem xét nghiên cứu trong các lĩnh vực liên quan về khám xét các chuyên gia khác nói gì về mối liên hệ giữa căng thẳng căng thẳng và bệnh tật.
Phần 1/4. Mối quan hệ giữa tâm trí và cơ thể
Căng thẳng mãn tính là một tình trạng tâm lý. Tuy nhiên, theo tiến sĩ Maté, thực hành y học hiện đại bắt nguồn từ thuyết nhị nguyên tâm lý – cơ thể, nghĩa là cơ thể và tâm trí được coi như những thực thể riêng biệt với các bác sĩ y khoa chỉ điều trị về cơ thể. Ông lập luận rằng, suy nghĩ về tâm trí và cơ thể như hai thực thể riêng biệt sẽ che giấu mối liên hệ giữa căng thẳng mãn tính và bệnh tật. Các nhà nghiên cứu có xu hướng mở lại những mối liên hệ đó đó vì cách họ xác định và hiểu về căng thẳng, cũng như việc họ thiếu chú ý đến tâm lý con người.
Triết học Descartes và Y học
Mặc dù khái niệm về thuyết Nhị Nguyên thân tâm có thể bắt nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại. Nhưng phần lớn tư tưởng học phương Tây hiện đại có nguồn gốc từ triết học Descartes của thế kỷ 17. Nhưng ý tưởng của Descartes về tâm trí và cơ thể như những thực thể riêng biệt đã được nhiều người coi là một bước ngoặt trong lịch sử tích cực trong y học. Bởi vì chúng thách thức những giáo điều tôn giáo đang cản trở sự tiến bộ của y học học. Trước thời điểm đó, bệnh tật thường được cho là do những sai lầm về đạo đức và các thế lực siêu nhiên, chẳng hạn như quỷ ám. Việc mổ sẻ con người cũng bị cấm vì niềm tin tôn giáo rằng, cơ thể phải được bảo quản nguyên vẹn để người đó có thể về trời. Vì vậy, việc tách rời tâm trí và cơ thể cho phép thay đổi những chuẩn mực và niềm tin này. Tuy nhiên, đến thời điểm này thì khoa học đã chỉ ra rằng tâm trí và cơ thể có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, y học vẫn tiếp tục coi chúng là riêng biệt.
Thuyết nhị nguyên tâm thể trong y học hiện đại
Thuyết Nhị Nguyên giữa cơ thể và tâm trí là nền tảng cho phương pháp tiếp cận hiện đại của phương Tây đối với y học. Điều này thể hiện rõ ràng trong thực tế là chúng ta phân biệt giữa các bác sĩ y khoa, bác sĩ tâm thần, và bác sĩ trị liệu và họ làm việc độc lập với nhau mà không có hoặc không có giao tiếp. Maté lập luận rằng đây là một thực hành thiếu sót bởi vì không có sự khác biệt giữa tâm trí và cơ thể, chúng là một phần của một tổng thể được kết nối với nhau. Ông nói rằng các nhà nghiên cứu và thực hành y khoa cần phải chú trọng hơn vào việc khám phá toàn bộ lịch sử cuộc đời của bệnh nhân.
Các hệ thống chữa bệnh truyền thống luôn mang tính toàn diện
Mặc dù thực hành y học hiện đại ở phương Tây thường bỏ qua mối liên hệ giữa tâm trí và cơ thể trong việc điều trị bệnh tật, nhưng nhiều xã hội bản địa với truyền thống shaman luôn tiếp cận bệnh tật từ góc độ tổng thể. Trong các hệ thống chữa bệnh truyền thống trên thế giới, các khía cạnh thể chất, tinh thần, tâm linh, xã hội và môi trường của cuộc sống từ lâu đã được hiểu là gắn bó chặt chẽ với nhau. Những thầy thuốc chữa bệnh truyền thống đã sử dụng một loạt các phương pháp và biện pháp đa dạng hơn nhiều so với các nhà y học hiện đại. Ví dụ, trong một nghiên cứu về các phương pháp chữa bệnh của người Maori (dân tộc bản địa của New Zealand) các nhà nghiên cứu mô tả sự hiểu biết vô cùng phức tạp và sự tác động lẫn nhau của nhiều yếu tố trong cuộc sống bao gồm cơ thể, tâm trí, tinh thần, gia đình, bộ tộc, tổ tiên, đất đai và kiến thức. Tất cả những yếu tố này được kết hợp vào các phương pháp chữa bệnh của “Rongoa Maori” hệ thống chữa bệnh truyền thống.
Phương pháp tiếp cận sinh học nghiêm ngặt
Maté chỉ ra rằng các bác sĩ có xu hướng chủ yếu tìm kiếm “nguyên nhân” sinh học của bệnh tật. khi họ không thể tìm thấy một căn bệnh nào đó, cũng như với hầu hết các bệnh ung thư và các bệnh nghiêm trọng khác, họ kết luận căn bệnh này là “căn nguyên không xác định”. Hiếm khi họ coi một nguồn gốc nhân quả trong tâm lý con người là nguyên nhân của bệnh tật.
Nghiên cứu di truyền đang bị nhấn mạnh tầm quan trọng quá mức nhưng theo tác giả gen được bật và tắt theo môi trường. Vì vậy, môi trường thực sự đóng một vai trò lớn hơn gen của chúng ta trong việc hình thành chúng ta. Nhưng lại có quá nhiều đầu tư vào nghiên cứu di truyền trong khi các nguyên nhân môi trường và xã hội của bệnh tật bị bỏ qua. Ông nói rằng các bác sĩ không hỏi được những câu hỏi mang tính toàn cảnh hơn như: “Tại sao bệnh nhân này lại mắc bệnh này vào thời điểm này”
Phương pháp tiếp cận tâm lý xã hội
Đối lập với cách tiếp cận sinh học nghiêm ngặt đối với bệnh tật, Maté ủng hộ một cách tiếp cận sinh học tâm lý xã hội, như đã đề cập trước đó, bao gồm việc xem xét các bệnh tật từ góc độ sinh học tâm lý và xã hội. Ông cũng ủng hộ các quan điểm liên ngành phức tạp như Psychoneuroimmunoendocrinology (PNI): nghiên cứu các mối liên hệ giữa hệ thần kinh, hệ miễn dịch, hormone và các quá trình tâm lý của chúng ta. Sự tương tác giữa các hệ thống này phục vụ cho việc nhận ra các mối đe dọa, bên trong và bên ngoài và phản ứng với chúng theo các cách sinh lý và hành vi.
Hội chứng viêm cơ căng thẳng
Để hỗ trợ cho tuyên bố của mình rằng hầu hết các bác sĩ không xem xét tiền sử cá nhân của bệnh nhân. Maté chỉ ra một nghiên cứu cho thấy rằng 2/3 bệnh nhân tiêu hóa có tiền sử lạm dụng thể chất hoặc tình dục, nhưng chỉ trong 17% trường hợp các bác sĩ của họ biết về từ tiền sử đó. Ngoài ra, chủ đề phổ biến trong nhiều cuộc phỏng vấn mà Maté thực hiện với các bệnh nhân của mình với nhiều loại bệnh khác nhau là mối quan hệ thời thơ ấu có vấn đề với cha mẹ. Điều này bao gồm các mối quan hệ xa cách hoặc không hài lòng về mặt tình cảm, bị bỏ rơi, cảm giác mất mát và thiếu tự chủ. Vấn đề là những lịch sử này cần có thời gian và sự quan tâm chăm chỉ để trích xuất bởi vì bệnh nhân thường phủ nhận và kìm nén những ký ức tiêu cực trên. Thực tế chỉ ra, nhiều người trong số họ thể hiện như thể họ có một tuổi thơ hạnh phúc vì vậy nếu không cố gắng có chủ đích, hầu hết các bác sĩ sẽ không bao giờ biết về trải nghiệm đau đớn của bệnh nhân.
Căng thẳng như một phản ứng đối với mối đe dọa
Căng thẳng là phản ứng của cơ thể đối với bất kỳ mối đe dọa nào – căng thẳng thực tế hoặc căng thẳng nhận thức được. Theo cách này, phản ứng với căng thẳng có thể được coi là mối liên hệ trực tiếp giữa tâm trí và cơ thể. Như tiến sĩ Maté mô tả, một mối đe dọa trước tiên phải được nhận thức và giải thích bằng tâm trí sau đó sẽ gửi tín hiệu đến các hệ thống của cơ thể để phản ứng. Các mối đe dọa có thể là vô số điều cụ thể, nhưng yếu tố chung là nhận thức của tâm trí bạn về việc thiếu hoặc có thể mất đi điều gì đó cần thiết để tồn tại. Đó có thể là bất cứ thứ gì từ thức ăn hoặc nơi ở cho đến tình yêu và sự kết nối.
Theo Maté các yếu tố tình huống gây ra căng thẳng là: “Sự không chắc chắn, xung đột, thiếu thông tin và mất kiểm soát”. Khi não nhận thức được “sự không chắc chắn, xung đột, thiếu thông tin hoặc mất kiểm soát”, nó sẽ kích hoạt phản ứng với mối đe dọa, có nghĩa là vùng dưới đồi, tuyến yên và tuyến thượng thận (“trục HPA”) tiết ra các hormon, bao gồm cortisol. Maté giải thích, cortisol là chất chống viêm của cơ thể. Tình trạng viêm xảy ra khắp cơ thể để đối phó với mối đe dọa và sau đó cortisol giải quyết nó bằng cách làm dịu tình trạng viêm. Tuy nhiên, vấn đề xảy ra khi “trục HPA” này không hoạt động chính xác và quá nhiều hoặc quá ít cortisol tiết ra cơ thể bạn. Theo Maté, giải quyết tình huống đe dọa tức là giành lại quyền kiểm soát hoặc giải quyết xung đột là cách duy nhất để hủy kích hoạt phản ứng căng thẳng HPA – nhưng chúng ta thường không làm được. Thông thường, chúng ta không ý thức được vấn đề là gì hoặc chúng ta không có khả năng khắc phục nó. Đây là lý do tại sao nhiều người sống với căng thẳng mãn tính mà không hề biết.
Các mối đe dọa trong thế giới hiện đại
Khi chúng ta nghĩ về những sự kiện căng thẳng, chúng ta thường nghĩ đến những thứ như tai nạn xe hơi, ly hôn hoặc mất đi người thân. Khi chúng ta trải qua những loại sự kiện này, chúng ta cảm thấy căng thẳng một cách có ý thức và mãnh liệt. Ông thừa nhận rằng, quá nhiều loại căng thẳng này có thể có hại, nhưng nói rằng dạng căng thẳng có hại hơn là mãn tính – một phản ứng căng thẳng liên tục ở mức độ thấp xảy ra trong cơ thể chúng ta trong cuộc trong suốt cuộc đời. Phần lớn căng thẳng mãn tính này là sản phẩm của lối sống của chúng ta.
Căng thẳng cấp tính là một phản ứng tự nhiên đối với sự hiện diện ngay lập tức của mối nguy hiểm. Cơ thể bắt đầu phản ứng “chiến đấu hoặc bỏ chạy”. Chúng ta thực sự chạy trốn hoặc chống lại mối đe dọa và sau đó cơ thể quay lại tại ở trạng thái cân bằng nội môi. Đôi khi, trải nghiệm điều này trong đời là điều tự nhiên Và thậm chí là lành mạnh.
Căng thẳng mãn tính là khi phản ứng chiến đấu hoặc bỏ chạy được kích hoạt trong một thời gian dài mà không bao giờ được giải quyết bởi vì nó không thực sự là một tình huống mà chúng ta có thể chạy trốn hoặc chiến đấu và /hoặc chúng ta không thực sự nhận thức được mối đe dọa. Quá trình này tnh hơn là vô thức loại căng thẳng này không bình thường hoặc tốt cho sức khỏe. Maté nói rằng phản ứng căng thẳng được tích hợp sẵn trong chúng ta vì nó có chức năng và cần thiết cho sự tồn tại của chúng ta. Nhưng các loại “mối đe dọa” mà chúng ta thường nhận thấy trong thế giới hiện đại không giống với những loại mối đe dọa mà chúng ta được tạo ra để đối phó. Chúng tôi được xây dựng về mặt tiến hóa để đối phó với các mối đe dọa như động vật ăn thịt hoặc nạn đói nhưng chúng tôi thường không có những mối đe dọa đó bây giờ. Vì vậy theo Maté, cơ thể của chúng ta phản ứng với các loại mối đe dọa nhận thức khác mà chúng ta không ý thức coi đó là mối đe dọa; Ví dụ: nếu chúng ta làm việc quá sức hoặc chúng ta không có các mối quan hệ hài lòng.
Kích hoạt cơ chế kiểm soát nội bộ của bạn
Nhu cầu kiểm soát là một cơ chế sinh tồn tiến hóa ở con người. Tổ tiên của chúng ta càng có nhiều quyền kiểm soát đối với môi trường của họ, thì họ càng có nhiều khả năng tránh được nạn đói hoặc bị ăn thịt. Tuy nhiên như Maté chỉ ra, bản năng muốn kiểm sát môi trường của chúng ta thực sự có thể phản tác dụng đối với cuộc sống trong xã hội hiện đại, trong đó có rất nhiều khía cạnh mà chúng ta không thể kiểm soát được chẳng hạn như giao thông hoặc một ông chủ quản lý vi mô. Trong trường hợp này, các nhà tâm lý học cho rằng điều quan trọng là chúng ta phải học cách ứng phó và thích hợp với căng thẳng do thiếu kiểm soát gây ra. Khi bạn chuyển sang quan điểm về khu vực kiểm soát bên trong, bạn sẽ giảm mức độ căng thẳng mà bạn gặp phải từ những tình huống này. Nói cách khác, hãy nhớ rằng ngay cả khi tình huống bên ngoài không nằm trong tầm kiểm soát của bạn, bạn vẫn có thể kiểm soát phản ứng của mình với nó.
Phần 2/4. Mối liên hệ giữa căng thẳng và bệnh tật
Bây giờ bạn đã hiểu cách định nghĩa căng thẳng và những gì căng thẳng mãn tính ảnh hưởng đến cơ thể, bạn có thể thấy tại sao hiểu tâm lý quan trọng như vậy. Tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét một số nghiên cứu mà Maté trích dẫn, trong đó các mối liên hệ đã được tạo ra giữa lịch sử cuộc sống, hồ sơ tâm lý và các bệnh cụ thể của mỗi người.
Bệnh của hệ thần kinh
MS (bệnh đa xơ cứng) và ALS (bệnh xơ cứng teo cơ một bên, hay “Bệnh Lou Gehrig” đều là những bệnh của hệ thần kinh có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau. Theo Maté, cả hai cũng được gắn liền với những kinh nghiệm sống và đặc điểm tính cách cụ thể. Ai cũng biết rằng các kênh cơn bùng phát MS có thể tương quan với căng thẳng. Nhưng theo nghiên cứu được trích dẫn bởi Maté các bác sĩ từ cuối những năm 1800 cũng đã gợi ý về mối liên hệ giữa các yếu tố gây căng thẳng trong cuộc sống và sự khởi phát của bệnh. Nhiều nghiên cứu kể từ đó đã phát hiện ra rằng những người bị MS có nhiều khả năng bị chấn thương tâm lý sớm trong đời, rối loạn chức năng tình cảm liên quan đến cha mẹ của họ và có các yếu tố gây căng thẳng cấp tính khác.
Ngoài ra, nghiên cứu cho thấy bệnh nhân ALS có một số đặc điểm chung nổi bật về đặc điểm tính cách Maté mô tả kiểu tính cách này độc lập và quyết liệt, miễn cưỡng yêu cầu sự giúp đỡ và từ chối những cảm xúc tiêu cực và nỗi đau. Những phẩm chất này được người khác coi là rất đáng ngưỡng mộ do đó Maté cho biết ông nhận thấy rằng bệnh nhân ALS là những người đặc biệt dễ mến và ông nói đây là điều được công nhận rộng rãi trong cộng đồng y tế. Maté lập luận rằng đặc điểm tính cách này là kết quả của sự kìm nén cảm xúc được hình thành từ những trải nghiệm trong thời thơ ấu và các cá nhân này thường có cha mẹ không bao giờ cho phép họ bộc lộ bản thân cả về mặt cảm xúc lẫn danh tính. Vì vậy, họ phải tạo ra một bản sắc dựa trên kỳ vọng của người khác và trau dồi mặt tiền của sự dẻo dai về cảm xúc.
Bệnh đường ruột
Các bệnh phổ biến của đường ruột (IBD/IBS và GERD) được Maté gọi là bệnh “chức năng”, có nghĩa là các triệu chứng không giải thích được bằng bất kỳ lời giải thích y sinh học nào. Ông nói rằng ai cũng biết rằng chúng thường bị kích hoạt bởi căng thẳng và người ta cũng nhận thấy rằng những người mắc các tình trạng này có tỉ lệ bị lạm dụng trong quá khứ của họ cao hơn so với những người khác. Theo Maté việc lạm dụng thể chất hoặc tình dục làm giảm những phản ứng đau của một người đặc biệt là ở ruột, do mối quan hệ nhạy cảm giữa ruột và não và sự phong phú của các tế bào thần kinh ở đó. Maté nói rằng “đau đớn là một phương pháp nhận thức” và do mối quan hệ giữa ruột và não. Cảm giác ruột của chúng ta giúp chúng ta biết khi nào chúng ta an toàn hay không an toàn.
Bệnh thấp khớp
Trong các bệnh tự miễn, chẳng hạn như viêm khớp dạng thấp, Lupus, xơ cứng bì và viêm cột sống dính khớp, hệ thống miễn dịch tấn công cơ thể của chính mình vì nó không thể phân biệt giữa các mô khoẻ mạnh và không khoẻ mạnh.
Theo Maté, các nghiên cứu đã kết nối các yếu tố tâm lý xã hội với sự khởi phát, bùng pháp và mức độ nghiêm trọng của các bệnh thấp khớp giống như ALS những người này có một đặc điểm tính cách đặc trưng: cái mà Maté gọi là “bù đắp cho sự siêu độc lập” – thường là do mất cha mẹ sớm hoặc mối quan hệ đảo ngược vai trò với cha mẹ. Maté nói “bốc hỏa và đau đớn là tín hiệu cho thấy cơ thể đang nói không”. Chúng khiến mọi người chậm lại và tránh những tình huống căng thẳng.
Bệnh tự miễn minh hoạ rõ nét nhất lý thuyết của ma tế rằng bệnh tật có thể liên quan đến việc người ta quay lưng lại với chính mình hoặc không có khả năng phân biệt giữa bản thân và người khác kể về mặt tâm lý và sinh lý mà chúng ta sẽ thảo luận ở phần sau.
Ung thư
Khi nhìn vào bệnh ung thư, chúng ta cũng có thể thấy một số điểm chung trong các đặc điểm cá nhân. Maté giải thích rằng tất cả con người đều có các tế bào bị hư hỏng và bất thường (thậm chí ác tính) trong cơ thể chúng ta. Tuy nhiên, phần lớn không bao giờ trở thành ung thư bởi vì hệ thống miễn dịch hoạt động để sửa chữa các tổn thương hoặc các tế bào chết đi trước khi chúng tái tạo. Theo Maté, điều này có nghĩa là đối với bất kỳ bệnh ung thư nào xảy ra tổn thương tế bào thôi là chưa đủ cũng phải có một số lỗi của hệ thống miễn dịch cho phép các tế bào bị tổn thương tiếp tục tái tạo mà không bị kiểm soát.
Maté trích dẫn nghiên cứu cho thấy căng thẳng ức chế các quá trình miễn dịch. Hệ thống PNI (Psychoneuroimmunoendocrinology) tạo ra các điều kiện tạo điều kiện thuận lợi hoặc ức chế sự phát triển của tế bào ung thư, và chúng ta biết rằng các quá trình tâm lý và cảm xúc ảnh hưởng đến hệ thống PNI. Một số nghiên cứu về yếu tố tâm lý xã hội liên quan đến ung thư đã phát hiện ra yếu tố nguy cơ lớn nhất là những cảm xúc bị kìm nén, cụ thể là cảm giác tức giận.
Ung thư vú
Ung thư vú, ung thư buồng trứng và ung thư tuyến tiền liệt đều là những bệnh ung thư có liên quan đến hormone. Maté mô tả nghiên cứu trong đó không tìm thấy mối liên hệ giữa căng thẳng và ung thư vú vì vậy kết luận là: không có mối tương quan. Tuy nhiên Maté đưa ra một chỉ trích quan trọng gọi kết luận này là nghi vấn. Trong kết luận người ta đã nói rằng các yếu tố nguy cơ chủ yếu là do di truyền và nội tiết tố. Tuy nhiên, Maté chỉ ra rằng chỉ có 7% bệnh nhân ung thư vú có nguy cơ cao về mặt di truyền, vì vậy, đó không thể được coi là một mối liên hệ chặt chẽ và có lẽ quan trọng hơn đã có nhiều tài liệu chứng minh rằng hormone bị ảnh hưởng bởi căng thẳng. Trong một cuộc nghiên cứu khác do Maté mô tả các yếu tố tâm lý xã hội có liên quan đến ung thư vú bao gồm khoảng cách tình cảm với cha mẹ khi cần nhỏ, kìm nén cảm xúc đặc biệt là tức giận, thiếu các mối quan hệ hỗ trợ và xu hướng chăm sóc cưỡng chế (hy sinh bản thân) ông trích dẫn hai nghiên cứu khác nhau. Trong đó các nhà nghiên cứu có thể dự đoán với độ chính xác 94- 96% phụ nữ sẽ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú chỉ dựa trên các yếu tố tâm lý xã hội này. Kết quả tương tự cũng được hiển thị với các nghiên cứu về ung thư buồng trứng.
Ung thư tuyến tiền liệt
Mặc dù người ta biết rằng ung thư tuyến tiền liệt có mối liên hệ chặt chẽ với hormone và sự cân bằng hormone với căng thẳng, Maté cho biết chưa có nghiên cứu nào điều tra mối liên hệ giữa các yếu tố tâm lý xã hội và ung thư tuyến tiền liệt. Nhưng nó có liên quan đến các yếu tố môi trường – Đàn ông Mỹ da đen có nguy cơ mắc ung thư tuyến tiền liệt cao gấp đôi đàn ông Mỹ da trắng. Khi tìm cách giải thích tại sao như vậy, Maté nói rằng nó không thể là do di truyền chủng tộc, bởi vì đàn ông Mỹ da đen có nguy cơ mắc bệnh này cao gấp 6 lần đàn ông ở Nigeria do đó ông đưa ra giả thuyết rằng nó có thể do áp lực xã hội khi trở thành người da đen ở Mỹ, bao gồm những căng thẳng kinh niên khi đối phó với nạn phân biệt chủng tộc cũng như việc thiếu các mạng lưới hỗ trợ gia đình và cộng đồng có xu hướng phổ biến hơn trong các cộng đồng người Mỹ da đen.
Chênh lệch sức khỏe chủng tộc ở Mỹ
Một số chênh lệch về sức khỏe tồn tại giữa các nhóm chủng tộc và sắc tộc ở Hoa Kỳ. Người da đen, người gốc Tây Ban Nha và người Mỹ bản địa có nhiều khả năng mắc các bệnh mãn tính, chẳng hạn như ung thư, tiểu đường, bệnh tim và hen suyễn. Nghiên cứu đã không chỉ ra một số yếu tố sinh học hoặc di truyền nào có thể giải thích cho những khác biệt này, vì vậy nguyên nhân của điều này được cho là:
1/ Thiếu tiếp cận tới việc chăm sóc sức khỏe: các nhóm thiểu số ở Mỹ có khả năng sống trong cảnh nghèo đói và do đó ít được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe hơn.
2/ Chế độ dinh dưỡng kém: những nhóm này cũng ít có khả năng được tiếp cận với một chế độ ăn uống lành mạnh và bổ dưỡng
3/ Tiếp xúc với chất độc: các cộng đồng khó khăn có nhiều khả năng có chất lượng không khí và điều kiện ở nhà kém hơn có thể dẫn đến việc tiếp xúc với các chất gây ô nhiễm chẳng hạn như chì
4/ Căng thẳng: Không chỉ nghèo đói tạo ra tình trạng căng thẳng mà trải nghiệm hàng ngày về (hoặc thậm chí dự đoán) sự phân biệt đối xử liên quan đến việc trở thành người da màu ở Mỹ có thể gây ra các phản ứng căng thẳng mãn tính ở mức độ thấp.
Ung thư phổi
Các lý thuyết phổ biến nói rằng ung thư là kết quả của sự phá hủy DNA của tế bào. Trong trường hợp ung thư phổi ở những người hút thuốc, một số tuần tổn hại đó là do sản phẩm thuốc lá gây ra. Maté nói rằng chúng ta biết tổn hại ngày xảy ra, nhưng nó không giải tại sao một số người hút thuốc bị ung thư phổi và những người khác thì không. Vì vậy cần có những yếu tố khác.
Maté trích dẫn hai nghiên cứu khác nhau cho thấy mối liên hệ giữa ung thư phổi và cảm xúc bị kìm nén, đặc biệt là sự tức giận. Một nghiên cứu dài hạn do Maté mô tả đã được thực hiện ở Nam Tư cũ. Khoảng 1.400 người tham gia đã được kiểm tra sức khỏe và tâm lý. Trong số 1.400, hơn 600 người đã chết 10 năm sau đó, tại thời điểm đó, các nhà nghiên cứu đã phân tích nguyên nhân tử vong cùng với các cấu trúc tâm lý. Trong kết luận được Maté mô tả, yếu tố nguy cơ số 1 dẫn đến tử vong, đặc biệt là ung thư, là “tính hợp lý và phản cảm” (R/A) – ám chỉ những người kìm nén cảm xúc.
Hơn nữa, tử vong do ung thư cao hơn 40 lần ở những người có chỉ số cảm xúc bị kìm nén cao nhất. Các nhà nghiên cứu đã có thể dự đoán chính xác những người nào sẽ chết vì ung thư trong 78% trường hợp chỉ dựa trên điểm số của họ về R/A và cảm giác tuyệt vọng.
Phần 3/4 Nguyên nhân cuối cùng của bệnh tật
Xem xét các mối liên hệ đã được quan sát giữa những căn bệnh này và căng thẳng, tính cách và kinh nghiệm sống, Maté lập luận rằng rõ ràng có những nguyên nhân khác ngoài sinh học ông nói rằng các bác sĩ thường chủ yếu tìm kiếm các nguyên nhân “gần” nhưng không tìm kiếm các nguyên nhân “cuối cùng”. Nguyên nhân gần bao gồm những nguyên nhân có thể quan sát được ngay lập tức trong khi nguyên nhân cuối cùng là những giải thích mang tính bức tranh lớn hơn.
Với tất cả các căn bệnh đã được thảo luận ma tế đang tìm kiếm nguyên nhân cuối cùng trong tâm lý của con người. Trong phần này chúng ta sẽ xem xét nguyên nhân cuối cùng gây căng thẳng mãn tính do trải nghiệm thời thơ ấu về mối đe dọa được nhận thức mà không được giải quyết. Bạn sẽ tìm hiểu những loại mối quan hệ cha mẹ – con cái đóng góp vào những trải nghiệm này ở trẻ em và cách xã hội hiện đại tạo điều kiện cho những mô hình nuôi dạy con cái này. Bạn cũng sẽ thấy lý do tại sao Maté nói rằng không ai chịu trách nhiệm về việc này vì vậy việc đổ lỗi là vô nghĩa.
Tích hợp y học cổ truyền và hiện đại
Nhà nhân chủng học Hank Wesselman nói rằng, trong các truyền thống pháp sư “nguyên nhân cuối cùng của Hầu như các tất cả các bệnh tập đều được tìm thấy trong cõi tưởng tượng”. Vì vậy, điều trị bệnh bằng thuốc chỉ đơn giản là giảm các triệu chứng mà không giải quyết được nguyên nhân. Ông xác định ba nguyên nhân gây ra bệnh tật theo quan điểm truyền thống của Pháp Sư
- Bất hoà
Đây là khi một người thấy mình ở trong tình trạng mà họ đã mất đi một số mục đích, ý nghĩa hoặc mối có mối liên hệ trong cuộc sống. Ví dụ khi một người mất một người thân yêu hoặc có một mối quan hệ rối loạn chức năn
- Sợ hãi: Sống chung với lo âu kinh niên
- Mất linh hồn: đây được coi là chuẩn đoán nghiêm trọng nhất và điều chúng ta có thể coi là trầm cảm nặng do chấn thương khi một người về cơ bản đã mất đi ý chí sống các ngành văn hóa truyền thống sẽ nói rằng họ đã “mất linh hồn”
Xem xét quan điểm truyền thống này dựa trên nghiên cứu mà chúng ta hiện có về mối liên hệ giữa căng thẳng và bệnh tật, chúng ta có thể thấy lý do tại sao một số y học phương Tây bao gồm cả Gabor Maté, bắt đầu thấy tầm quan trọng của việc học hỏi từ các nền văn hóa bản địa và tích hợp y học cổ truyền và hiện đại để một cách tiếp cận hoàn toàn diện hơn để chữa bệnh.
Bản thân và những người khác
Một trong những lĩnh vực mà sự phát triển của thời thơ ấu có thể bị sai lệch lạc trong quá trình phân hóa, Maté giải thích rằng con người tự nhiên có nghĩa là phát triển từ trạng thái hoàn toàn phụ thuộc sang độc lập phụ thuộc lẫn nhau – nghĩa là chúng ta nên phát triển ý thức về bản thân tách biệt với những người khác và có thể tự điều chỉnh cảm xúc của mình nhưng cũng có các mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau. Maté nói bất kỳ rối loạn chức năng nào trong mối quan hệ cha mẹ con cái đều có thể gây ra các vấn đề với các quá trình bên trong điều chỉnh cơ thể sống sót của đứa trẻ. Điều này có thể dẫn đến việc cá nhân quá phụ thuộc vào người khác và không học cách tự điều chỉnh hoặc trở nên quá độc lập và không phát triển các mối quan hệ hỗ trợ.
Nuôi dưỡng cha mẹ
Một động lực khác có thể gây ra các vấn đề phát triển liên quan đến căng thẳng ở trẻ em là loại tình cảm nuôi dưỡng mà cha mẹ dành cho trẻ. Maté nói rằng, ngoài cảm giác an toàn khi còn nhỏ, chúng ta cũng cần cảm thấy được yêu thương. Maté giải thích rằng, gần 90% sự phát triển của não bộ diễn ra trong vài năm đầu đời của trẻ và sự phát triển này là sản phẩm của các yếu tố di truyền thừa hưởng và điều kiện môi trường. Ông nói rằng sự tương tác tình cảm yêu thương với cha mẹ hoặc sự thiếu hụt của họ, ảnh hưởng đến việc giải phóng các hormone và sự cân bằng của những hormone đó ảnh hưởng đến sự phát triển của não. Khi não bộ của một đứa trẻ không nhận được những thông điệp nhất quán về tình yêu thương và sự nuôi dưỡng, nó sẽ phát triển theo cách mà nó không thể phân biệt chính xác đâu mới là mối đe dọa và đâu không phải là mối đe dọa. Đây là lý do tại sao sự đụng chạm cơ thể của cha mẹ lại quan trọng đối với sự phát triển thích hợp ở tất cả các loài động vật có vú và rất quan trọng đối với con người để có thể phát triển các mối quan hệ lành mạnh. Maté nói nghiên cứu về trẻ sinh non cho thấy sự tiếp xúc trìu mến tác động mạnh mẽ đến sự phát triển như thế nào.
Ảnh hưởng của tâm lý sớm của trẻ
Có lẽ một trong những xu hướng phá hoại nhất trong việc gây ra rối loạn chức năng giữa các thế hệ trong mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ là lời khuyên tâm lý trẻ em đã trở nên nổi bật vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Một số người tiên phong trong lĩnh vực này, tin rằng các bà mẹ không nên thể hiện tình cảm với trẻ sơ sinh, nên bỏ qua tiếng khóc của trẻ sơ sinh, không nên bế chúng và trừng phạt thể xác là cần thiết để nuôi dạy những đứa trẻ ngoan ngoãn. Nhà tâm lý học hành vi người Mỹ John B.Watson đã viết một cuốn sách có tên là Chăm sóc tâm lý cho trẻ sơ sinh và trẻ em vào năm 1928, trong đó ông gọi tình yêu của mẹ là “một công cụ nguy hiểm” có thể dẫn đến những tác động tai hại đến trẻ em và cơ hội sống của chúng khi trưởng thành. Ông ủng hộ việc không bao giờ hôn, ôm hay có bất kỳ hành động âu yếm nào đối với trẻ em. Mặc dù các nhà tâm lý học đương đại coi lời khuyên này là sai lầm nghiêm trọng, nhưng ảnh hưởng trọng đại của nó đến từ các chuyên gia trong lĩnh vực này có thể đã có những tác động tàn phá đối với nền văn hóa Mỹ và châu Âu và chúng tiếp tục được truyền lại một cách vô thức qua nhiều thế hệ trong các mô hình nuôi dạy con cái ngày nay. Maté chỉ ra ở đây rằng không chỉ lam dụng và chấn thương mới gây ra bệnh liên quan đến căng thẳng – một số người có cùng vấn đề căng thẳng không phải vì những gì đã gây ra cho họ mà vì những gì đã ngăn chặn với họ. Trẻ em không chỉ cần sự đụng chạm thể xác tình cảm và sự an toàn, chúng cũng cần sự quan tâm. Có nghĩa là cha mẹ được “điều chỉnh” theo nhu cầu của trẻ. Maté nói nói ngay cả những bậc cha mẹ thực sự yêu thương con cái và những đứa con của họ biết rằng chúng được yêu thương đôi khi vẫn chưa được coi là đầy đủ Sự Quan Tâm.
Tính cách và vị thế
Ngoài những yếu tố thời thơ ấu, còn có các yếu tố tình huống trong gia đình và xã hội có thể dẫn đến việc các cá nhân áp dụng các đặc điểm tính cách nhất định có liên quan đến căng thẳng mãn tính. Chúng ta nhận thấy rằng một số đặc điểm tính cách góp phần gây ra căng thẳng lớn hơn. Nhưng Maté giải thích rằng những đặc điểm tính cách này không chỉ đơn giản là những thuộc tính riêng lẻ chúng là kết quả của động lực gia đình lớn hơn – “vị trí” của chúng ta trong một gia đình nhiều thế hệ và những gia đình đó được định vị trong một nền văn hóa và xã hội.
Con người trước đây sống trong các gia đình và cộng đồng mở rộng với nhiều người lớn nuôi dưỡng chăm sóc trẻ em. Nhưng giờ đây các gia đình hạt nhân và cấu trúc kinh tế xã hội (đặc biệt là trong các xã hội tư bản), Cca mẹ phải làm việc trong khi con cái được đưa vào nhà trẻ và các trường học cách biệt với đại gia đình. Do đó, nhiều căn bệnh được thảo luận ở đây là sản phẩm của nền văn minh gần đây hơn.
Phần 4/4 Kê đơn để chữa bệnh
Sau khi chúng ta đã xem xét “nguyên nhân cuối cùng” nhiều mặt của căng thẳng mãn tính dẫn đến bệnh tật, bạn có thể cảm thấy cam chịu khi biết những mô hình này đã ăn sâu vào tâm lý của bạn từ khi còn nhỏ. Tuy nhiên, Maté nhấn mạnh rằng, tại bất kỳ thời điểm nào trong cuộc đời bạn có thể kiểm soát được tình trạng căng thẳng kinh niên của mình và trau dồi lối sống và cách ứng xử lành mạnh hơn. Trong phần cuối cùng này, chúng ta sẽ xem xét lời khuyên của Maté để phát triển năng lực cảm xúc một cách hệ thống để giảm bớt tác động của căng thẳng mãn tính đối với tâm trí và cơ thể của bạn.
- Tránh nhiễm độc
Lời khuyên đầu tiên mà Maté đưa ra để chống lại các tác động căng thẳng mãn tính đối với cơ thể chúng ta là từ chối sự chú trọng quá mức vào suy nghĩ tích cực. Suy nghĩ tích cực thực ra là để đối phó với những cảm xúc tiêu cực nhưng cách này chỉ khiến mọi người kìm nén chúng. Maté nói rằng suy nghĩ lành mạnh bao gồm việc thừa nhận tất cả những cảm xúc chân thật của chúng ta. Chỉ tập trung vào mặt tích cực và phủ nhận tiêu cực là một cơ chế bảo vệ được phát triển bởi những người bị tổn thương nhưng đó không phải là một giải pháp thay vì đó hãy nắm lấy sức mạnh của suy nghĩ tiêu cực. Hãy chú ý đến những tín hiệu tiêu cực mà cơ thể bạn đang truyền cho bạn. Hãy can đảm để nói cơ thể tôi nói “không” với điều gì thay vì triển khai cơ chế đối thoại của bạn để tránh đau đớn. Maté nói rằng, khi bạn tránh được những gì sai và chỉ tập trung vào những gì đúng bạn bị người khác kiểm soát, bạn không phải là một con người tự chủ khi bạn sống để làm hài lòng người khác. Khi bạn thực hiện một vài trò dựa trên kỳ vọng và khi bạn không bao giờ nói không.
Tác giả cũng nói rằng thực trạng những cảm xúc tích cực góp phần vào sức khỏe – tình yêu, niềm vui và hạnh phúc làm tăng phúc lợi của chúng ta. Nhưng vấn đề là mọi người đang sử dụng những cảm xúc tích cực không chân thành để che đậy những cảm giác tiêu cực.
“Sự tích cực độc hại” là sự nhấn mạnh quá mức và một thái độ tích cực đến mức khó làm mất tác dụng của bất kỳ cảm xúc tiêu cực nào. Trong khi lĩnh vực tâm lý học tích cực, tập trung vào các phương pháp tiếp cận sức khỏe tâm thần liên quan đến việc nhấn mạnh vào việc nuôi dưỡng sự lạc quan thì các nhà tâm lý học trong lĩnh vực này lại phân biệt rõ ràng giữa cách tiếp cận đó và cách tiếp cận “độc hại”. Tâm lý học tích cực khuyến khích việc tìm kiếm sự hài lòng thông qua việc khám phá những gì khiến bạn cảm thấy thỏa mãn trong cuộc sống, trong khi một cách tiếp cận “độc hại” đối với sự tích cực bao gồm việc khuyến khích và cung cấp sự tích cực trong bất kỳ và tất cả tình huống bao gồm cả những tình huống không chân thành và không hữu ích. Các nhà tâm lý học tích cực nói rằng việc đưa ra sự tích cực trong những tình huống không phù hợp sẽ làm giảm giá trị cảm xúc và thể hiện sự thiếu đồng cảm. Để tạo ra cảm giác tích cực thực sự, hãy thử một số kỹ thuật sau đây do các nhà tâm lý học tích cực gợi ý:
- thực hành lòng biết ơn: hãy viết thư, nhật ký biết ơn hàng ngày hoặc bày tỏ lòng biết ơn đối với những người xung quanh bạn mỗi ngày
- Thực hiện những hành động tử tế ngẫu nhiên: Nghiên cứu tâm lý học cho thấy rằng làm những điều tử tế cho người khác sẽ mang lại cho bạn cảm giác hạnh phúc
- Viết một câu chuyện hạnh phúc về cuộc sống cho chính mình hình dung tương lai bạn muốn và thực sự hình dung nó như thế sẽ là sự thật
- Thực hành chánh niệm: thiền định yêu bản thân và chánh niệm được chứng minh là giúp tăng cường sự tự tin, lòng tự trọng và sự mãn nguyện
- Lắng nghe cơ thể của bạn
Nhận thức được tất cả các cảm xúc thực sự của bạn có nghĩa là học cách tin tưởng vào nội tâm của bạn và nhận ra các dấu hiệu căng thẳng trong cơ thể bạn. Maté nói rằng bạn nên bắt đầu điều chỉnh một cách có ý thức hơn những gì cơ thể bạn đang nói với bạn. Một số dấu hiệu của căng thẳng tiềm ẩn bao gồm: nhịp tim nhanh, đi tiểu thường xuyên, đổ mồ hôi nhiều, các vấn đề tiêu hóa và đau không rõ nguyên nhân như đau lưng hoặc đau đầu thường xuyên. Ông cũng nói rằng hãy theo dõi các tín hiệu cảm xúc hành vi chẳng hạn như: trầm cảm, lo lắng, tăng động, quá mẫn cảm, phản ứng quá mức và bất đồng. Nếu bạn nhận ra những dấu hiệu này, hãy xem chúng như một thông điệp từ cơ thể của bạn nhằm giúp bạn nhận biết được một vấn đề tiềm ẩn. Maté khuyến khích bạn tiếp xúc với cơn giận đang tìm nén của mình và khám phá ý nghĩa của nó. Giận dữ là đối với một cái gì đó – một số mối đe dọa được nhận thức. Xác định đó là gì, sau đó cho phép bản thân cảm nhận cơn giận và chiêm nghiệm nó cho đến khi nó tan biến và/hoặc bạn có thể được trị liệu.
- Hãy là con người đích thực của bạn
Maté nhấn mạnh đến lối sống đích thực. Suy ngẫm một cách trung thực về các mối quan hệ trong cuộc sống của bạn hãy Bỏ “cặp mắt kính màu hồng” và hỏi xem nhu cầu của bản thân chưa được đáp ứng ở đâu, nơi nào bạn gạt nhu cầu của mình sang một bên hoặc kìm nén cảm xúc của mình và cảm thấy không được hỗ trợ và không được công nhận hãy làm như vậy với lòng trắc ẩn, nhận ra rằng những người khác chỉ đang hành động theo ý muốn của họ. Tránh đổ lỗi. Maté nói, điều quan trọng là bạn có trách nhiệm với bản thân để thay đổi mọi thứ trong tương lai. Vì vậy ông khuyên bạn nên tự hỏi bản thân xem, bạn đã sống cuộc sống của mình theo con người thật của mình chưa, Hay bạn đang cố gắng đáp ứng kỳ vọng của người khác. Maté nói rằng hãy để ý đến cảm giác tội lỗi. Cảm giác tội lỗi thường là dấu hiệu cho thấy bạn đang làm điều gì đó cho chính mình thay vì cho người khác. Nếu bạn nhận ra điều này, hãy học cách chấp nhận cảm giác tội lỗi và sử dụng nó như một tín hiệu cho thấy bạn thực sự đang làm điều gì đó đúng đắn. Nếu nói không với điều đó khiến bạn cảm thấy có lỗi, nhưng nói có lại gây ra sự phẫn uất. Maté nó rằng bạn nên luôn chọn cảm giác tội lỗi bởi vì sự oán hận sẽ tai hại hơn nhiều.
- Kết nối với những người khác
Maté nói rằng, tất cả chúng ta cần phát triển mạng lưới hỗ trợ lành mạnh. Nghiên cứu rộng rãi cho thấy rằng những người cô đơn mất kết nối có nguy cơ mắc bệnh cao hơn trong khi hỗ trợ xã hội làm giảm căng thẳng và giảm nguy cơ bệnh tật. Vì vậy, hãy tìm kiếm các mạng lưới hô trợ xã hội mạnh mẽ hơn. Tiếp cận và kết nối. Đặc biệt, nếu bạn đang đau khổ, hãy tìm người khác để kết nối và hành hình thành tình cảm gắn bó.
- Có khuynh hướng về tinh thần của bạn
Cuối cùng Maté đưa ra lời khuyên để chăm sóc không chỉ cho tâm trí mà thể chất và còn cả tinh thần của bạn. Điều này có nghĩa là kết nối với một cái gì đó ngoài chính bạn và ông gợi ý hai con đường chính cho điều này:
sự thôi thúc sáng tạo của bạn: nhấn mạnh rằng mọi người đều có một số loại thôi thúc sáng tạo. Điều này không chỉ đề cập đến nghệ thuật, đó có thể là bất kỳ cách nào bạn thể hiện bản thân. Ví dụ, thông qua viết lách, khiêu vũ, làm vườn, nấu ăn hoặc xây dựng. Cho dù cách thể hiện của bạn là gì Maté luôn khuyến khích bạn khám phá nó và kết hợp nhiều hơn vào cuộc sống của bạn.
kết nối bạn với vũ trụ: Bạn nên cố gắng kết nối với điều gì đó vĩ đại hơn chính mình. Đối với một số người đây là tôn giáo hay Chúa trong khi đối với những người khác có thể là kết nối với thiên nhiên, thực hành thiền định, nghiên cứu thiên văn học hoặc bất cứ điều gì khác khiến bạn cảm thấy như mình là 1 một phần của một tổng thể vĩ đại hơn. Maté nói một cách tiếp cận thực sự toàn diện đối với sức khỏe phải liên quan đến cả ba chiều của con người đó là cơ thể, tâm trí và tinh thần.
Lời kết
Hãy tự phòng tránh bệnh cho mình qua cuốn sách này. Bác sĩ y khoa kiêm tác giả cuốn sách bán chạy nhất tiến sĩ Gabor Maté đã cho thấy rằng ba yếu tố phổ biến dẫn đến căng thẳng: sự không chắc chắn, thiếu thông tin và mất kiểm soát tâm lý đóng vai trò mạnh bạo như thế nào trong sự khởi phát của bệnh mãn tính như ung thư và nhiều căn bệnh nghiêm trọng như thế nào. Bạn cũng đã nhận được nhiều lời khuyên về những cách để tự chữa bệnh tinh thần của mình. Hãy luôn nhớ rằng cuộc sống luôn có những căng thẳng nối tiếp nhau khiến cho bạn mệt mỏi thậm chí phát bệnh. Bác sĩ sẽ chữa trị cho bạn một phần nào đó còn lại bạn sẽ phải tự biết cách phòng tránh và chữa cho chính mình.