Thức Tỉnh Điều Vô Hình – Tác giả: Sam Harris

Ngay càng có nhiều người chọn lối sống thế tục, dựa trên sự hiểu biết khoa học về thế giới, thay vì các truyền thống tôn giáo. Nhưng liệu những người này – bao gồm những người vô thần, người theo thuyết bất khả tri, người theo chủ nghĩa nhân văn và những người không muốn nhận bất kỳ nhãn hiệu nào – có đang bỏ lỡ điều gì quan trọng? Sam Harris, một nhà triết học và khoa học nổi tiếng, cho rằng có. Ông lập luận rằng việc từ bỏ những khía cạnh chiêm nghiệm của tôn giáo khi chuyển sang lối sống thế tục có thể dẫn đến việc bỏ lỡ sự bình yên và sự hài lòng sâu sắc, những điều thường được gắn liền với các trạng thái ý thức siêu việt.

Tên sách: Thức Tỉnh Điều Vô Hình

Tìm kiếm sự An bình Tinh thần từ quan điểm Thế tục

Theo Harris, khoa học không bác bỏ giá trị của những trạng thái ý thức cao hơn này. Tuy nhiên, do các trải nghiệm này thường được truyền thống tôn giáo đón nhận, những người có quan điểm thế tục có thể đã loại bỏ chúng một cách không công bằng. Harris trình bày một cách tiếp cận dựa trên lý trí để khám phá và tận hưởng cuộc sống tinh thần, được dẫn dắt bởi những gì khoa học và kinh nghiệm con người dạy chúng ta về hoạt động của tâm trí.

Sam Harris, người tiên phong trong phong trào Vô thần mới, nổi tiếng với việc khuyến khích những người hoài nghi đối diện với niềm tin tôn giáo bằng sự phê phán trí tuệ và tranh luận hợp lý. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ khám phá định nghĩa về tâm linh của Harris, những gì khoa học thần kinh nói về bản chất của ý thức, và thiền định có thể dạy chúng ta gì về tâm trí con người. Chúng ta sẽ tìm hiểu lập luận của Harris rằng ý thức và cảm giác về bản thân cá nhân là hai khía cạnh riêng biệt của trải nghiệm, trong đó ý thức là có thật còn cảm giác về bản thân chỉ là ảo ảnh. Cuối cùng, chúng ta sẽ xem xét các phương pháp thực tiễn để đạt được sự giác ngộ tâm linh từ một quan điểm thế tục và ý nghĩa của việc tìm kiếm sự hoàn thiện bản thân trong một hệ thống niềm tin như vậy.

Phần 1/5. Tâm linh thế tục

Để nói về những trải nghiệm tâm linh trong lĩnh vực thế giới quan khoa học, bước đầu tiên là xác định “tâm linh” nghĩa là gì trong bối cảnh này. Đối với tác giả Harris, tâm linh là quá trình khám phá ý thức, theo cách xua tan ảo tưởng rằng sự tồn tại của bạn được xác định bởi suy nghĩ và cảm xúc của bạn. Những khám phá như vậy cũng có thể bao gồm việc đạt được các trạng thái ý thức bên ngoài trải nghiệm thông thường. Harris thảo luận tại sao một thực hành như vậy lại đáng mong muốn, làm thế nào để tách tâm linh ra khỏi giới hạn của tôn giáo và tại sao trong số tất cả các tín ngưỡng lớn, Phật giáo đưa ra lộ trình thực tế nhất để có được những trải nghiệm tâm linh mà không bị ảnh hưởng bởi mê tín và giáo điều.

Harris bắt đầu từ một nền tảng đơn giản, đó là mọi người đều muốn được hạnh phúc. Thật không may, trên “máy chạy bộ khoái lạc” của nền văn hóa vật chất, sự bình yên và mãn nguyện luôn ở đâu đó trong tương lai trong khi bạn thì đang cố gắng chạy trốn nỗi đau trong quá khứ. Những nỗ lực tâm linh, chẳng hạn như cầu nguyện và chiêm nghiệm, là nỗ lực giúp bạn thoát ra khỏi chu kỳ này, đưa nhận thức của bạn vào thời điểm hiện tại và ở đây. Đây là thực hành chánh niệm sự tập trung nhận thức có chủ ý của bạn vào thời điểm hiện tại và trải nghiệm nó mà không phán xét. Hạnh phúc và bình yên chỉ có thể tìm thấy ở hiện tại bởi vì khoảnh khắc hiện tại là tất cả những gì bạn thực sự có thể trải nghiệm.

Thực hành chánh niệm (dưới hình thức thiền định) dạy ba nguyên lý đơn giản:

  1. Suy nghĩ của bạn định hình trải nghiệm chủ quan của bạn.
  2. Cảm xúc tích cực là những kỹ năng bạn có thể rèn luyện.
  3. “Cảm giác về bản thân” của bạn chỉ là ảo ảnh.

Theo tác giả, nguyên lý cuối cùng trong số này – bản ngã là ảo tưởng – nằm ở trung tâm của tâm linh. Trải nghiệm tâm linh là cảm giác vượt qua sự tồn tại hữu hạn của bạn, giải phóng nhận thức của bạn khỏi sự lo lắng, khao khát, buồn bã và đau đớn thường xuyên. Trong suốt lịch sử, nhiều người đã cảm nhận được sự siêu việt như vậy, thường là trong bối cảnh của một tôn giáo cho rằng những khoảnh khắc siêu việt có nguồn gốc thần thánh. Tuy nhiên, vì mọi người thuộc mọi tín ngưỡng đều có những trải nghiệm siêu việt giống nhau, ngay cả giữa các tôn giáo trực tiếp mâu thuẫn với nhau. Nên xét về mặt logic, một số yếu tố bên ngoài tôn giáo phải là nguồn gốc của trải nghiệm tâm linh.

Cách tiếp cận của Phật giáo.

Nếu chúng ta loại bỏ bất kỳ nguyên nhân siêu nhiên nào, thì điểm chung được chia sẻ bởi những ai từng trải nghiệm tâm linh chính là thân phận con người – cụ thể là nhận thức và cảm xúc. Trải nghiệm chung này là nơi chúng ta tìm thấy những sự thật phổ quát mà các tôn giáo đối lập khác đã khám phá.

Harris nói rằng trong khi hầu hết các tôn giáo che giấu con đường dẫn đến những sự thật này đằng sau mê cung mê tín, nghi lễ và giáo điều, thì Phật giáo tiếp cận tâm linh với sự tập trung gần như khoa học vào thực nghiệm và quan sát, mở ra con đường cho những người không theo tôn giáo nào trải nghiệm sự chuyển đổi ý thức mà không phải chú ý đến bất kỳ tuyên bố siêu nhiên nào.

Harris không phải là người duy nhất lưu ý đến khả năng áp dụng của Phật giáo bên ngoài lĩnh vực tín ngưỡng tôn giáo. Trong Sapiens, Yuval Noah Harari phân loại Phật giáo như một hình thức tôn giáo dựa trên quy luật tự nhiên hơn là quy luật của một vị thần thánh. Định nghĩa của Harari về những gì tạo nên một tôn giáo khá rộng, bao gồm các hệ thống niềm tin phi siêu nhiên như chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa nhân văn và một số triết lý vô thần, cũng giống như ý tưởng cua tác giả Harris trong cuốn sách này

Công bằng mà nói, Phật giáo đưa ra những tuyên bố siêu nhiên giống như bất kỳ tôn giáo nào khác, chẳng hạn như sự tồn tại của linh hồn, sự tái sinh và một số tín đồ Phật giáo có sức mạnh phi thường. Tuy nhiên, khi loại bỏ khuôn khổ thần thoại, Phật giáo có cốt lõi thực nghiệm – một quá trình thực tế nhằm đưa nhận thức của bạn vào thời điểm hiện tại, để bạn có thể nhận ra rằng suy nghĩ và cảm xúc không quyết định sự tồn tại của bạn. Thay vì yêu cầu bạn tin vào ý tưởng này, Phật giáo đưa ra một khẳng định có thể kiểm chứng được, rằng bạn càng thực hành thiền định thì bạn càng có khả năng giải thoát bản thân khỏi đau khổ.

Khoa học về ý thức

Trước khi đi sâu vào cách áp dụng các thực hành Phật giáo vào đời sống phi tôn giáo, chúng ta sẽ khám phá xem khoa học thần kinh và tâm lý học nói gì về bản chất của ý thức và tâm trí. Thật không may, khoa học hiện đại hiện không thể xác định được ý thức là gì, chứ chưa nói đến việc nghiên cứu nó một cách trực tiếp. Những gì chúng ta có thể làm là kiểm tra các phỏng đoán khoa học về ý thức, những nghiên cứu hiện tại có thể cho chúng ta biết gì về bản chất phức tạp của nhận thức và phỏng đoán gì về cách ý thức về bản sắc cá nhân xuất hiện trong não.

Về mặt sinh học, điều chúng ta có thể nói chắc chắn về ý thức, là nó là sản phẩm của não, mặc dù không có hình ảnh nào về não có thể chỉ ra một quá trình thần kinh cụ thể tạo ra ý thức. Đúng hơn, ý thức dường như là một thuộc tính nổi bật của hệ thần kinh một thuộc tính phụ thuộc vào cách thức hoạt động của não, đồng thời độc lập với bất kỳ bộ phận nào của não. Bởi vì ý thức là một trải nghiệm hoàn toàn chủ quan, Harris nghi ngờ rằng nghiên cứu khoa học sẽ không bao giờ có thể giải thích được nó là gì từ góc độ thần kinh.

Harris cho biết, những điều mà nghiên cứu có thể khám phá là các quá trình tâm thần khác nhau mà chúng ta coi là một phần của ý thức, chẳng hạn như ngôn ngữ, hành vi và nhận thức giác quan, mặc dù với tư cách cá nhân, chúng ta hoàn toàn không ý thức được cách thức hoạt động của các quá trình thần kinh này. Hình ảnh thần kinh cho thấy việc xử lý ngôn ngữ và kỹ năng vận động được điều khiển bởi bán cầu não trái, trong khi việc lập bản đồ không gian và xử lý cảm xúc xảy ra ở phía bên phải của não. Tuy nhiên, không có quá trình nào trong số này xác định ý thức. Những người bị chấn thương sọ não có thể mất đi một hoặc nhiều khía cạnh ý thức này mà không mất đi sức mạnh của ý thức.

Một hiện tượng làm sáng tỏ bản chất thú vị của ý thức là trải nghiệm của những người đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ bán cầu não để điều trị bệnh động kinh. Sau khi được phân chia, mỗi bán cầu thể hiện những kỹ năng, tính cách và thậm chí cả mong muốn khác nhau, hành xử như hai tâm trí riêng biệt trong một cơ thể. Harris lập luận rằng sự phân chia ý thức này cho thấy bằng thực nghiệm rằng tâm trí là một đặc tính của bộ não vật lý chứ không phải là một “linh hồn” ảo tưởng sống bên trong nó. Suy cho cùng, tin vào linh hồn ngụ ý rằng tâm trí của bạn độc lập với cơ thể – nhưng làm sao tâm trí nằm trong linh hồn có thể bị chia đôi chỉ bởi 1 thủ tục y tế? Đó cũng lại là 1 câu hỏi.

Lý thuyết tâm lý

Ngoài khả năng nhận thức có ý thức về suy nghĩ và cảm xúc của mình, một chức năng khác của não là diễn giải suy nghĩ và cảm xúc của người khác. Các nhà tâm lý học gọi đây là “lý thuyết về tâm trí” – sự hiểu biết rằng người khác có quan điểm khác với quan điểm của bạn. Ở cấp độ thần kinh, chức năng này của não bắt nguồn từ các tế bào thần kinh phản chiếu, các tế bào thần kinh hoạt động để phản ứng với hành vi của người khác. Ngoài việc mô hình hóa hành động của người khác, tế bào thần kinh phản chiếu còn ngoại suv ý định đằng sau những gì người khác làm. Các nhà khoa học tin rằng quá trình này của não xác định người khác là những sinh vật riêng biệt, nhưng có gắn bó chặt chẽ với ý thức về cá nhân và bản thân của bạn.

Harris gợi ý rằng có một mối liên hệ thậm chí còn cơ bản hơn giữa lý thuyết về tâm trí và cảm giác về bản thân của bạn, đó là sự hiểu biết của bạn rằng người khác biết về bạn. Cảm giác về bản sắc cá nhân mà chúng ta bám vào được xác định đối lập với danh tính của những người khác, những người mà chúng ta coi là những sinh vật tách biệt với chính mình như được mô hình hóa bởi các tế bào thần kinh phản chiếu của chúng ta. Khi những người khác không ở đó để quan sát chúng ta, chúng ta vẫn duy trì một cuộc đối thoại nội tâm như thể danh tính của chúng ta cần có khán giả để tồn tại.

Harris lập luận rằng cảm giác về bản sắc và bản ngã của bạn là ảo ảnh được tạo ra bởi vô số quá trình tinh thần liên kết với nhau và việc vượt qua ảo tưởng về bản thân thông qua suy ngẫm sâu sắc là cốt lõi của tâm linh.

Phần 2/5. Thiền Tách rời ý thức khỏi bản ngã

Vì phương pháp khoa học hiện tại chưa đủ để khám phá đầy đủ bản chất của tâm trí, tác gia chuyển sang thiền định nội tâm để điều tra các đặc tính của ý thức, bản sắc và bản ngã, cũng như ý nghĩa của việc vượt qua chúng. Harris mô tả bản chất chủ quan cơ bản của ý thức, làm thế nào nó có thể được khám phá ở cấp độ cá nhân và tại sao ý thức và bản ngã cá nhân là hai khía cạnh riêng biệt của tâm trí, trong đó khía cạnh sau lại ảo tưởng hơn bạn nghĩ.

Trong bối cảnh này, ý thức là nhận thức chủ quan của bạn về sự tồn tại của bạn và thế giới xung quanh bạn. Yếu tố hạn chế trong việc kiểm tra ý thức là không có gì ngoài ý thức có thể quan sát được nó, và chỉ từ quan điểm ngôi thứ nhất. Bạn có thể kiểm tra tâm trí tỉnh táo của chính mình, nhưng bạn không thể quan sát trực tiếp tâm trí của người khác và không ai khác có thể quan sát trực tiếp tâm trí của bạn. Điều này khiến một số nhà tư tưởng cho rằng bản thân ý thức là một ảo ảnh, nhưng Harris cho rằng lập luận đó thật ngớ ngẩn. Nếu ý thức là ảo ảnh thì trải nghiệm về ảo ảnh đó là bằng chứng cho thấy ý thức là có thật.

Thông qua tâm linh, điều mà Harris định nghĩa là sự chiêm nghiệm sâu sắc về tâm trí có ý thức của bạn, mà bạn có thể thực sự tìm hiểu về bản thân mình. Mặc dù tâm lý học đã chứng minh sức mạnh tiềm ẩn của tiềm thức, nhưng chính trong nhận thức đã có ý thức mà bạn trải nghiệm một cách chủ quan về cuộc sống, vũ trụ và mọi thứ trong đó. Ý thức là nơi bạn cảm nhận được nỗi đau và niềm vui cũng như là nơi bạn đưa ra những đánh giá về mặt đạo đức. Ví dụ, hãy xem xét niềm tin phổ biến rằng việc gây đau đớn cho người khác là sai trái. Niềm tin đó bắt nguồn từ trải nghiệm chủ quan của một người về nỗi đau và sự hiểu biết có ý thức rằng những người và sinh vật khác đều có khả năng trải nghiệm chủ quan tương tự.

Thông thường, những phán xét đạo đức như vậy được coi là mục đích của tôn giáo, tuy nhiên ngay cả những thực hành tôn giáo cũng có thể làm sáng tỏ bản chất của ý thức. Ví dụ, hãy xem xét các truyền thống tu viện tìm kiếm sự bình an nội tâm thông qua thiền định và tự cô lập. Harris gợi ý rằng trong khi những nhà sư này đang cố gắng giao tiếp với thần thánh, họ cũng đang tiến hành một thí nghiệm triết học để xác định xem liệu sức khỏe tâm lý có thể tồn tại bên ngoài cuộc đấu tranh với thế giới bên ngoài không. Qua nhiều thế kỷ, những thí nghiệm này đã mang lại nhiều kết quả tích cực, bao gồm cả những trạng thái tâm trí siêu việt, đặc biệt khi những người thực hành thiền đã học cách làm im lặng những lời độc thoại nội tâm của chính họ.

Thiền Tách rời ý thức khỏi bản ngã

Điểm mấu chốt trong lập luận của Harris ủng hộ “tâm linh thế tục” là việc thực hành thiền định có thể giúp bạn tìm thấy sự yên tĩnh bằng cách trải nghiệm những khoảnh khắc của ý thức thuần khiết, không được lọc. Điều này xảy ra khi bạn trải nghiệm ý thức mà không cần suy nghĩ, khi bạn để tiếng nói bên trong mình – cũng như những cảm xúc hỗn loạn liên tục trôi đi. Harris nói rằng nếu bạn có thể trải nghiệm nhận thức mà không bị gánh nặng bởi cuộc trò chuyện nội tâm liên tục của mình, bạn sẽ nhận ra rằng ý thức của bạn độc lập với bất kỳ cảm giác nào về bản sắc cá nhân và bản ngã, và cảm giác về bản sắc của bạn chỉ là ảo ảnh. Khi Harris nói “cái tôi” là một ảo ảnh, chính xác thì ý ông ấy là gì? Cái tôi mà ông đang đề cập đến là cảm giác rằng bạn là một sinh vật vô hình ngồi bên trong đầu bạn, nhìn ra ngoài bằng mắt và điều khiển cơ thể bạn như một chiếc xe. Harris khẳng định rằng cảm giác đặc biệt này là sản phẩm của cái mà ông gọi là “sự liên tục về mặt tâm lý”, sự sáng tạo và kể lại liên tục những ký ức về trải nghiệm thể chất và nhận thức của bạn từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc tiếp theo. Sự liên tục trong từng khoảnh khắc này tạo ra ảo tưởng rằng “bạn” trong đầu bạn cũng chính là “bạn” của ngày hôm qua hoặc sẽ là ngày mai. Nhưng “Bạn” có phải là con người “bạn” của năm năm trước khi “bạn” còn là một đứa trẻ hay không?

Câu trả lời khả dĩ cho câu hỏi của Harris là chủ đề của một nghiên cứu tâm lý năm 2012 nhằm đánh giá sự thay đổi tính cách ở hơn 170 người trong khoảng thời gian 65 năm. Nghiên cứu cho thấy khả năng điều chỉnh tâm trạng của một người vẫn nhất quán trong suốt cuộc đời, nhưng những đặc điểm tính cách khác thì không, mặc dù những thay đổi diễn ra dần dần. Một nghiên cứu khác cho thấy rằng trong số tất cả các đặc điểm của một người, niềm tin và thái độ đạo đức của bạn có liên quan chặt chẽ nhất đến ý thức về danh tính của bạn, còn trí nhớ đứng ở vị trí thứ hai.

Tuy nhiên, khi thiển làm gián đoạn cuộc trò chuyện trong tâm trí của bạn, bạn sẽ trải nghiệm nhận thức không bị che mờ, bởi câu chuyện bên trong thường xác định ý thức về bản sắc của bạn. Bạn nhận ra rằng từ quan điểm chủ quan, tất cả những gì có thể thực sự tồn tại là nhận thức hiện tại của bạn và những suy nghĩ chứa đựng trong đó. Harris không tranh luận rằng bạn không tồn tại hoặc bạn chưa trải qua những điều bạn nhớ. Điều tác giả đang nói là ý thức về cái tôi của bạn là cấu trúc của ký ức và suy nghĩ của bạn, và nó che đậy một thực tế sâu sắc hơn rằng tất cả những gì bạn thực sự có là nhận thức có ý thức của mình, thứ không được xác định bởi suy nghĩ, cảm xúc và ký ức thường xuyên tác động lên nó.

Phần 3/5. Khai sáng thực tế bằng thiền

Tất cả những suy ngẫm này đặt ra một câu hỏi thực tế: Việc hiểu bản chất của ý thức mang lại lợi ích cho bạn trong cuộc sống hàng ngày theo cách nào? Câu trả lời nằm ở đòn bẩy mà nó mang lại cho bạn để kiểm soát tâm trí mình. Nguyên lý trung tâm của bất kỳ phương pháp thực hành thiền nào cũng là khả năng định hướng và định hình suy nghĩ và cảm xúc của bạn sẽ quyết định chất lượng trải nghiệm của bạn về cuộc sống và thế giới xung quanh. Tác giả giải thích những lợi ích đã được ghi chép của việc thực hành thiền cũng như những cạm bẫy cần chú ý. Sau đó, ông tiếp tục khám phá “sự khai sáng” nghĩa là gì trong bối cảnh phi tôn giáo và nghịch lý cơ bản của việc tìm kiếm sự hoàn thiện bản thân nếu bản thân chỉ là ảo ảnh.

Harris trích dẫn các nghiên cứu tâm lý trong đó mọi người cho biết suy nghĩ của họ lang thang ít nhất 50% thời gian. Tâm trí lang thang này đi đôi với sự bất hạnh ngày càng tăng và hoạt động não bộ tăng cao, bất kể việc suy ngẫm của họ là dễ chịu hay khó chịu. Mặt khác, các nghiên cứu về sự chú ý tập trung cho thấy giảm căng thẳng, cải thiện chức năng nhận thức và điều chỉnh cảm xúc tốt hơn.

Vấn đề là đối với những người mới bắt đầu, thật khó để phân biệt sự khác biệt giữa thiền chủ động và để tâm trí lang thang. Điều quan trọng là học cách nhận thức hiện tại trước khi suy nghĩ của bạn can thiệp vào nhận thức của bạn. Không có chánh niệm, những suy nghĩ tràn ngập trong đầu bạn sẽ trở thành cuộc độc thoại nội tâm bất tận, kể lại cuộc đời bạn cho chính mình.

Con đường chánh niệm

Theo Hamlet, “Không có gì tốt hay xấu cả, chính tư duy mới tạo nên điều đó”. Kiểm soát cuộc trò chuyện trong tâm trí của bạn đòi hỏi phải chấp nhận rằng phản ứng của bạn trước bất kỳ tình huống nào – cho dù đó là đau khổ, phấn khởi hay thờ ơ – thì đó hoàn toàn đều là sản phẩm trong suy nghĩ của bạn. Chánh niệm cho phép bạn lựa chọn phản ứng của mình một cách có ý thức thay vì nhượng bộ những phản ứng theo thói quen, chẳng hạn như tức giận hoặc oán giận. Tác giả không khuyên bạn nên tách rời khỏi thực tế; ông chỉ nói rằng bạn không cần phải để thế giới bên ngoài điều khiển những phản ứng cảm xúc của mình.

Cách tiếp cận cuộc sống hoàn toàn bằng thiền định đòi hỏi một sự trưởng thành về mặt trí tuệ nhất định, mặc dù thực hành chánh niệm có lợi cho mọi người ở mọi lứa

tuổi, chẳng hạn như dạy cách tự nhận thức về mặt cảm xúc. Có một số tình trạng tâm lý và thể chất nhất định mà việc thực hành thiền có thể khiến tình trạng trở nên tồi tệ hơn. Nếu bạn mắc phải một trong những chứng bệnh đó, tác giả khuyên bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi bắt đầu hành trình thiền định.

Nếu bạn quyết định theo đuổi thiền định, điều quan trọng là phải tìm được một người thầy giỏi, một người có thể làm gương cho sự bình tĩnh và cảm giác hiện diện mà bạn đang cố gắng đạt được trên con đường đi đến giác ngộ. Tuy nhiên, hãy cảnh giác, vì vai trò của đạo sư tâm linh đặc biệt hấp dẫn đối với những kẻ lừa đảo. Ngay cả những vị thầy hướng dẫn thiền tốt đôi khi cũng đưa ra những tuyên bố sai lầm về khoa học hoặc y học, vì nó không liên quan đến lĩnh vực của họ. Như trong mọi việc, việc duy trì một mức độ hoài nghi nhất định là điều tốt, đặc biệt nếu bạn cảm thấy mình đang bị lừa dối hoặc lạm dụng bởi một người tự nhận là bậc thầy tâm linh. Chọn một phương pháp thiền Thiền Phật giáo chủ yếu tập trung vào chánh niệm, quản lý những cảm xúc mạnh mẽ và thực hành lòng từ bi. Mục đích của nó là tìm kiếm hạnh phúc thông qua việc hoàn thiện bản thân hơn là tìm kiếm mối liên hệ với thần thánh. Thiền Hindu, còn được gọi là yoga, hướng đến việc đạt được sự kết hợp với thần thánh, mặc dù tập trung vào tư thế, hơi thở và sự tập trung, nó được biết là mang lại lợi ích cho sức khỏe thể chất. Thiền định của Cơ đốc giáo, tương đương với lời cầu nguyện, được hình dung như một cách để giao tiếp với Chúa và nó có thể mang lại cảm giác hạnh phúc và mục đích lớn hơn trong cuộc sống. Thiền phương Tây, mặc dù khó định nghĩa hơn so với các truyền thống cũ, nhưng thường tập trung vào việc hoàn thiện bản thân thông qua việc đạt được mục tiêu và thể hiện cuộc sống mà bạn mong muốn.

Phần 4/5. Bản chất của sự giác ngộ

Nếu bạn vẫn chưa rõ về mục tiêu cuối cùng của thiền ngoài việc học cách sống hiện diện nhiều hơn trong thời điểm hiện tại, thì bạn không đơn độc. Sự “giác ngộ” mà các bậc thầy thiền định nói đến rất khó định nghĩa. Sự giác ngộ là việc bạn mất đi ý thức về bản thân cá nhân và nhận thức được thế giới xung quanh mà không gặp rào cản do suy nghĩ của bạn tạo ra. Tác giả thảo luận về trạng thái giác ngộ có thể cảm thấy như thế nào, các bước bạn phải trải qua trên con đường đạt được nó và sự giác ngộ dạy gì về hoạt động của tâm trí.

Đạt được giác ngộ không có nghĩa là bạn đột nhiên có được sức mạnh thần bí hay tâm trí của bạn hoà làm một với vũ trụ. Thay vào đó, giác ngộ có nghĩa là đạt được trạng thái cân bằng tinh thần, trong đó bạn không bị lung lay bởi những thăng trầm của cuộc sống – hoặc nếu có, bạn có thể lấy lại thăng bằng nhanh chóng. Điều đó không có nghĩa là từ bỏ những thứ bạn yêu thích hay nhắm mắt làm ngơ trước đau khổ và bất công. Một tư duy giác ngộ chỉ đơn giản là nhận ra rằng mọi thứ đều là tạm thời và cho phép bạn điều hướng những thời điểm tốt và xấu bằng sự bình tĩnh và cởi mở.

Nói rõ hơn, mục tiêu của sự giác ngộ không phải là ngừng suy nghĩ và cảm nhận. Mục tiêu là ngừng đồng nhất với những suy nghĩ và cảm xúc của bạn, bởi vì sự tự đồng nhất đó là gốc rễ của mọi đau khổ của bạn. Thiền có thể giúp bạn thoát khỏi chu kỳ đau đớn bằng cách rèn luyện bạn nhận biết suy nghĩ và cảm xúc của mình như những đối tượng tồn tại ngoài ý thức của bạn. Bạn có thể phát hiện ra chúng khi chúng xuất hiện, xem xét chúng như một người quan sát khách qua và để chúng trôi đi mà không chiếm lấy sự chú ý của bạn.

Hành trình thiền

Tất nhiên, thiền là một kỹ năng cần phải luyện tập. Khi mới học thiền, ban đầu bạn có thể cảm thấy nóng vội thành công. Tuy nhiên, khi luyện tập, bạn có thể ngày càng cảm thấy mất tập trung hơn trong lúc thiền. Đây là một bước tự nhiên trong quá trình thiền định, và mặc dù có vẻ như bạn đang trở nên kém hơn khi thiền, nhưng điều đó thực sự có nghĩa là bạn đang tiến bộ hơn. Nếu bạn bắt đầu cảm thấy mất tập trung khi thiền, điều đó có nghĩa là bạn đang nhận ra suy nghĩ của mình tốt hơn – nói cách khác, bạn đang đi đúng hướng. Sự giác ngộ thực sự có thể vẫn còn rất xa, nhưng bạn sẽ thấy rằng quá trình đạt được điều đó khiến tâm trí bạn Cuôi cùng, trong khi thiên, bạn có thể nhận thấy ý thức của mình tồn tại giữa ý nghĩ này và ý nghĩ tiếp theo. Khi điều này xảy ra, cuối cùng bạn có thể hiểu rằng bạn không phải là suy nghĩ của mình. Thay vào đó, bạn là nhận thức có ý thức rằng những suy nghĩ nhất thời của bạn đi qua. Giống như nhận thức của bạn là một màn hình chiếu phim và suy nghĩ của bạn là những hình ảnh được chiếu trên đó. Cho dù những hình ảnh đó là gì thì chúng cũng không thể gây hại cho màn hình chiếu phim.

Đây là sự giác ngộ tâm linh cốt lõi – ý thức không có suy nghĩ là trải nghiệm cơ bản, thực sự của bạn. Harris nghi ngờ liệu có ai có thể luôn sống trong trạng thái nhận thức này hay không, nhưng ông tin rằng thông qua thực hành, bạn có thể thoáng thấy nó. Làm như vậy có thể giải phóng bạn khỏi đau khổ do những suy nghĩ phóng chiếu lên màn hình trống rỗng trong tâm trí bạn. Làm sao bạn có thể đau khổ khi “cái tôi” đang đau khổ chỉ là ảo ảnh, một “hiệu ứng phim đặc biệt” của não bộ?

Trong cuốn sách Bẫy Hạnh Phúc, Russ Harris trình bày một cách nhìn khác về cùng một ý tưởng mà tác giả Sam Harris trong cuốn sách này đang cố gắng truyền đạt. Thay vì tuyên bố rằng bản thân là một ảo ảnh được tạo ra bởi một dòng suy nghĩ thoáng qua, thì Russ Harris nói rằng bạn có một “bản thân suy nghĩ” và “bản thân quan sát”, mỗi cái phục vụ một chức năng khác nhau trong tâm trí bạn. Theo quan điểm này, mục đích của chánh niệm là tách rời hai phần nhận thức này để có thể quan sát và nhận ra suy nghĩ nào hữu ích và suy nghĩ nào không. Thay vì xem “bản thân suy nghĩ” của bạn như một ảo ảnh, bạn có thể đơn giản học cách tránh xa những xu hướng phá hoại của nó.

Phần 5/5. Nghịch lý của sự giác ngộ

Nhận ra rằng ý thức về bản thân chỉ là sự tưởng tượng của bạn, câu hỏi hóc búa sau đây sẽ nảy sinh: Tại sao bạn phải nỗ lực cải thiện bản thân nếu “cái tôi” của bạn không thực sự tồn tại? Harris giải thích cách các trường phái tư tưởng khác nhau giải quyết câu đố này, sau đó khám phá những lời dạy của Phật giáo Dzogchen và cách nó hướng tới một cách tiếp cận lành mạnh để chấp nhận những cạm bẫy trong cuộc sống đồng thời phấn đấu để trở nên tốt đẹp hơn. Harris nói rằng thiền không “làm cho tâm trí bạn tốt hơn” – nó cho thấy trạng thái yên tĩnh vốn có sẵn để bạn tiếp cận.

Tuy nhiên, vì thực hành thiền là một kỹ năng cần phải thành thạo và cải thiện. Ở đây, Harris hướng về Phật giáo để được hướng dẫn,

Harris không phải là người đầu tiên bình luận về các khía cạnh thực tế, có căn cứ của Phật giáo. Chính Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đưa ra một cách tiếp cận thực tế để đạt được sự hài lòng dựa trên giáo dục, động lực bản thân và rèn luyện tinh thần. Trong khi khuyên bạn nên biến tâm linh thành một phần trong cuộc sống hàng ngày của bạn, Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố rõ ràng rằng không thành vấn đề nếu tâm linh của bạn là tôn giáo hay thế tục điều quan trọng là những hành động tích cực xuất phát từ đời sống tinh thần của bạn.

Cách tiếp cận được thể hiện bởi Phật giáo Nguyên thủy bỏ qua nghịch lý của việc tự hoàn thiện bản thân bằng cách đặt sự giác ngộ như một mục tiêu xa xôi trong tương lai và có thể không bao giờ đạt được, nhưng phải luôn hướng tới. Harris lập luận rằng vấn đề với cách tiếp cận này là nó trí tuệ hóa khái niệm ảo tưởng về bản thân.. Suy cho cùng, nếu bạn đang có cảm giác cái tôi của mình chỉ là ảo ảnh thì bạn vẫn đang suy nghĩ thay vì trải nghiệm nhận thức thuần túy. Một cách tiếp cận khác, Advaita Vedānta, khẳng định rằng thiền không phải là con đường dẫn đến giác ngộ và sự hiểu biết đầy đủ về ảo tưởng bản ngã chỉ có thể đến như một tia sáng của tuệ giác, một thứ mà một khi đã nhìn thấy thì không thể không nhìn thấy được, gần giống như một ảo ảnh quang học.

Harris áp dụng cách tiếp cận cá nhân tuân theo những lời dạy của Phật giáo Dzogchen, Mục đích của Dzogchen là phá vỡ ảo tưởng về bản ngã và trải nghiệm ý thức thanh tịnh vào bất kỳ thời điểm nào. Bước đột phá này không phải là sản phẩm của thiền định kéo dài mà là hình thức nhận thức tức thời về ảo ảnh. Tuy nhiên, các giáo viên Dzogchen thừa nhân rằng ban khó có thể có được “sư sáng suốt” mà bạn đang cố gắng đạt được nếu không có kỹ năng quan sát phát triển nhờ thực hành thiền định. Do đó, trong Dzogchen, bạn thiền định để củng cố nhận thức của mình để khi khoảnh khắc tuệ giác đến, bạn sẽ có thể nhận ra nó thực chất là gì.

Phật giáo Nguyên thủy, được thực hành ở Đông Nam Á, được cho là hình thức tôn giáo tồn tại lâu đời nhất. Hơn các tông phái Phật giáo khác, Nguyên thủy thừa nhận tính nhân văn lịch sử của Đức Phật hơn là xem Ngài như một nhân vật thần thánh.

Nhánh chính khác của đức tin là Phật giáo Đại thừa, được thực hành ở Trung Quốc, Nhật Bản và Tây Tạng. Nó bắt nguồn từ các nhà sư Phật giáo vào thế kỷ thứ 1 trước Công nguyên, những người đã xem Đức Phật như một đấng siêu việt và tin rằng bất cứ ai cũng có thể đạt được giác ngộ. Dzogchen, con đường mà Harris đề xuất, không phải là một trường phái Phật giáo riêng biệt mà thay vào đó là một tập hợp các thực hành nâng cao trong truyền thống Đại thừa Tây Tạng.

Harris nói rằng bằng cách tuân theo những lời dạy của Phật giáo Dzogchen, ông có thể nhìn thấu ảo tưởng về bản ngã của chính mình. Ông không thể làm điều đó mọi lúc, nhưng bằng cách luyện tập, ông có thể thường xuyên tiếp cận được nhận thức rõ ràng về thời điểm hiện tại. Ông thấy rằng loại nhận thức tâm linh này không dẫn đến sự tách biệt hoặc thiếu động lực để cải thiện bản thân. Đúng hơn, ông lập luận rằng nhận thức như vậy có thể giúp bạn tìm thấy một nơi bình tĩnh và sáng suốt, từ đó bạn có thể chấp nhận cuộc sống và thế giới của mình trong khi cố gắng làm mọi thứ tốt hơn.

Lời kết. Tìm kiếm sự An bình Tinh thần từ quan điểm Thế tục

Trong suốt cuốn sách này, Sam Harris đã dẫn dắt chúng ta qua một hành trình khám phá sâu sắc về bản chất của ý thức, sự giác ngộ tinh thần và cách mà những trải nghiệm này có thể được tiếp cận từ một quan điểm thế tục. Từ việc phân tích các trạng thái ý thức siêu việt cho đến việc khám phá mối quan hệ giữa khoa học thần kinh và tinh thần, Harris đã đưa ra những luận điểm mạnh mẽ về cách chúng ta có thể tìm thấy sự bình yên và sự mãn nguyện mà không cần phải dựa vào các hệ thống tôn giáo truyền thống. Những bài học chính từ cuốn sách này bao gồm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0931 743 374
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon